Tử Yến - Chương 7
18
“Bà chủ, đang nhớ ai mà mộng mị thế? Món ăn còn chưa xong à?”
Người nọ nói xong lại quay sang bạn đồng hành đùa giỡn vài câu tục tĩu.
Ta bừng tỉnh, liền hô lớn ra nhà bếp. Sau đó quay sang hắn mỉa mai:
“Không thấy ta đang bận à? Gấp gì thế? Hay là ngươi sắp đầu thai rồi?”
Nghe vậy, sắc mặt kẻ đó lập tức thay đổi, đang định quay lại mắng ta, nhưng vừa thấy con chó to nằm kế bên chân ta—Bát Vạn—liền nghẹn họng.
Có người khuyên hắn đừng để bụng, nói lần sau đừng đến nữa là được.
Ta hừ lạnh một tiếng. Trong lòng thầm nghĩ: không đến cũng chẳng sao, vốn dĩ quán trọ này chẳng định buôn bán với khách quay lại.
Ba năm trước, Kỷ Liên nhét vào tay ta một túi lớn vàng lá, đưa ta đến nơi rừng thiêng nước độc, sát biên giới hai nước.
Khi ta tỉnh lại, mẫu thân đang ngồi bên bàn ăn, ăn ngon lành, dưới chân là Bát Vạn đang không ngừng lạy lục.
Thấy ta mở mắt, Châu Châu liền mừng rỡ, lấy ra giấy tờ đất và nhà trọ từ quầy.
Ta sững sờ, không nói gì, chỉ lặng lẽ nhận lấy.
Bởi ngoài chuyện đó ra… ta cũng chẳng biết còn có thể giúp gì cho Kỷ Liên nữa.
Chớp mắt đã hơn nửa năm trôi qua, chim nhạn không còn bay qua biên giới.
Tin Tiêu Lam thất thế, mãi hai tháng sau ta mới biết.
Một vị khách đi ngang qua kinh thành trên đường sang Xiêm buôn hương liệu, ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, nghe ngóng khắp nơi mới biết Thái úy ép cung thất bại, bị tướng quân Tiêu Kỵ chém ngay trước điện.
Đi ngang bảng cáo thị, y cố tình liếc qua, quả nhiên có rất nhiều người được thăng quan tiến chức bất thường.
Khi ấy ta đang ngồi quầy tính sổ, vừa nghe đã lập tức chạy ra:
“Vậy còn Đông Xưởng? Bảng vàng có nhắc tới Cửu Thiên Tuế không?”
Người kia khịt mũi:
“Cái gì mà Cửu Thiên Tuế? Một tên hoạn quan thì làm nên trò trống gì?”
Ta sững sờ.
Phải rồi, ai sẽ còn nhớ tới công lao của một kẻ thái giám chứ.
Ta thu lại ánh mắt, ngồi lặng nơi quầy sổ cả một ngày, ngay cả sổ sách cũng quên chưa tính.
Thấm thoắt lại qua một năm, phái Hàn Lâm ngày càng hô hào mạnh mẽ cho phong trào “trừ thái giám”, ai đứng sau giật dây, cũng chẳng cần đoán cũng biết.
Đế vương chi thuật, cốt ở cân bằng quyền lực. Sau khi trừ được Thái chính vương, kế tiếp chính là Đốc công Đông Xưởng – kẻ đang nắm giữ quyền khuynh triều dã.
Kỳ thực, ngay từ lúc rời khỏi hoàng thành, ta đã biết: Kỷ Liên chưa từng có ý định sống tiếp.
Hắn là thanh đao trong tay hoàng đế, dùng để thanh trừng dị đảng, toàn thân vấy bẩn những điều không thể lộ ra ánh sáng, chỉ riêng tấm lòng là trong sạch – trong sạch đến mức có thể nhẫn nhịn những sỉ nhục, nghi ngờ trắng trợn.
Chỉ một câu ân tình, hắn khắc ghi cả đời, báo đáp cũng cả một đời.
Thật là một kẻ si ngốc.
Năm Hy Hòa thứ mười hai – cũng là năm thứ ba ta làm bà chủ quán trọ, Đông Xưởng bị bãi bỏ, Đốc công Kỷ Liên từ đó không rõ tung tích.
Gọi là mất tích, nhưng chân tướng ra sao, lòng ta cũng đoán được bảy tám phần.
Hôm ấy, ta đang kiểm rượu trong kho, thì nhận được thư từ Biện Lương, người gửi đề tên: Diệp Liên.
“A Linh, mau ra đây!”
Ta đang bóc thư, thì mẫu thân ta lại cao giọng gọi, giục ta đi gặp lão đồ tể họ Lý ở trấn Thập Lý.
Lần trước sơn tặc kéo đến cướp trọ, dọa bà sợ mất mật, cứ khóc lóc đòi rằng trong nhà phải có một nam nhân trấn trạch mới được.
Không cần suy nghĩ, ta từ chối ngay. Nhưng sau bữa tối, bà vẫn lẽo đẽo theo ta khuyên nhủ:
“Con ơi, mẹ biết trong lòng con có người, nhưng cái thời thế dọa chết người này, con cũng thấy rõ rồi còn gì.”
Bà nhìn ta, muốn nói lại thôi, rồi nhẹ giọng: “Người con muốn gặp… chắc là không về nữa đâu.”
Trong đầu ta chợt hiện lên những lời Kỷ Liên từng nói, hắn bảo: “Lý Phục Linh, nàng không làm yêu quái thì thật là uổng phí.”
Phải rồi, ta là yêu quái, sao lại có thể treo cổ trên một cành cây mãi được?
Vậy mà không hiểu sao, khi nghe mẹ nói thế, nước mắt ta lại tuôn rơi không ngớt.
Mẫu thân ta xưa nay không giỏi an ủi người, chỉ biết vỗ nhẹ vai ta, rồi lặng lẽ lui ra.
Từng giọt lệ trong veo nhỏ xuống trang giấy, khiến nét bút cuối thư nhòe mờ.
Ta dùng tay áo lau mãi, mà vẫn không sao làm khô được vệt nước trên ấy. Cuối cùng đành đặt thư xuống, mở cửa sổ nhìn ra ngoài.
Ngoài trời gió thu se lạnh, thổi tan vầng mây ráng đỏ cuối trời.
Rơi vào tay trẻ thơ thì thành quả cam ngọt dịu, vào mắt bà lão thì hóa sắc nâu như đôi đồng tử đã phai màu thời gian.
Sinh tử giao thoa, nhân quả luân hồi, xưa nay vẫn thế.
Dưới lầu có tiếng gọi:
“Bà chủ! Cho một bình rượu ngon, thêm hai lạng thịt bò!”
Ta thở dài một hơi, buông phong thư, rồi hướng xuống dưới đáp: “Có ngay!”
Cửa vừa khép lại, gió thu theo khe cửa lùa vào, thổi bay trang giấy trên bàn.
Trên ấy, bằng nét tiểu khải mềm mại, chỉ viết vỏn vẹn một câu:
“Lý Phục Linh, nếu có kiếp sau, ta sẽ đến gặp nàng, nguyên vẹn như thuở ban đầu.”
— Chính văn kết thúc —
Phiên ngoại 1
Ta vốn chẳng còn muốn rơi lệ vì Kỷ Liên nữa, nhưng lại nợ y một việc sau cùng, buộc lòng phải hoàn tất.
Nhân tiết tháng Ba, xuân về hoa nở, giang thủy tan băng, ta mang theo mấy chiếc màn thầu, một mình bước lên chiếc thuyền khách trở lại Giang Tả.
Phải nói rằng, vận mệnh của ta so với Diệp Chiêu quả thực tốt hơn nhiều lắm, đi thuyền hơn nửa tháng mà chẳng gặp tai ương gì, trái lại còn gặp không ít hảo nhân – tốt đến nỗi ta tưởng mình bị rơi vào một nhóm chuyên đi lừa gạt người khác bằng lòng tốt.
Lên bờ, ta thẳng đường tới Đông Xưởng. Nào ngờ nơi ấy đã biến dạng hoàn toàn, chẳng còn vật gì xưa cũ còn có thể dùng làm kỷ niệm.
Hết cách, đành ghé tiệm hàng mã, mua ít giấy tiền vàng bạc, y phục giấy, miễn cưỡng dựng cho Kỷ Liên một ngôi mộ y quan hư.
Tổ huấn Đại Hạ có dạy: “Người chết như đèn tắt, phải nhập thổ mới yên, nếu không, linh hồn chẳng thể siêu sinh, đời sau chẳng thể làm người lương thiện.”
Nếu Kỷ Liên đã nguyện “kiếp sau đến gặp ta, nguyên vẹn một thân”, thì ta, dù thế nào cũng phải giúp y một tay.
Ta đứng nơi núi non thanh tú, nhìn ra Cang Diễm sơn, cúi mình đắp nắm đất cuối cùng cho gò mộ nhỏ kia, thì thầm: “Như vậy, cũng coi như lá rụng về cội rồi đấy thôi.”
Gió xuân lành lạnh lướt qua tai, tựa như trời xanh ngầm cho ta một lời hồi đáp.
Xong việc, ta vòng đường đến phủ họ Diệp.
Khi còn ở trong mê vụ, có lắm chuyện mù mờ chẳng tỏ. Mà mấy năm nay trú lại quán nhỏ, lòng ta ngược lại lại sáng tỏ hơn nhiều.
Diệp phu nhân chỉ mặt mắng ta: “Ngươi còn đến làm gì?! Làm hại con ta chưa đủ thảm hay sao?!”
Ta ngồi buông chân nơi ghế thái sư, tiện tay nhón một quả sấu ngâm bỏ vào miệng.
Chậc, nơi biên ải đâu dễ gì ăn được cái vị sấu chính tông thế này.
Uống ngụm trà, ta thản nhiên mở lời: “Phu nhân đang nói đứa con nào? Diệp Chiêu hay Diệp Luyến?”
Nghe vậy, mặt mày phu nhân đại biến, ánh mắt nhìn ta vừa kinh ngạc vừa hoảng hốt, thanh âm cũng vỡ vụn: “Ngươi… làm sao biết được Diệp Luyến?!”
Thấy nàng thất thố, ta khẽ cười. Tâm đã rõ ràng.
Khó trách Kỷ Liên hận nhà họ Diệp đến thế.
Khó trách y lại giống Diệp Chiêu như đúc.
Khó trách… Diệp Chiêu chẳng nhớ từng cứu ta.
Kỷ Liên từng ám chỉ không ít lần, nhưng ta bị thành kiến che mờ, chưa từng hiểu thấu hàm ý trong lời y.
Phu nhân chồm tới, nắm chặt lấy vai ta, trong mắt vốn sắc bén nay đầy nước mắt: “Ngươi đã gặp Luyến nhi rồi sao? Con ta hiện ở đâu?”
Ta lạnh lùng đứng yên, không đáp mà hỏi ngược: “Diệp phủ vốn có hai công tử, năm xưa vì sao lại bỏ rơi một người?”
Phu nhân ngồi phịch xuống đất, như lạc vào hồi ức xa xăm, hai mắt đờ đẫn vô thần.
“Trước lúc sinh, khổ vô đại sư từng bói một quẻ, nói sinh đôi là điềm xấu, có thể hại đến song thân. Hơn nữa, sao song tử hạ phàm, ắt có một thịnh một suy. Nếu không bỏ đi một đứa, e là cả hai cũng khó giữ. Giá mà… giá mà năm xưa giữ lại Luyến nhi, chí ít nhà ta bốn người còn có thể đoàn tụ thêm vài năm nữa…”
Cõi đời thật lạ lùng. Có người vì một lời ân nghĩa mà nguyện chôn vùi cả đời, lại có kẻ vì một câu bói toán mơ hồ mà nhẫn tâm vứt bỏ cốt nhục thân sinh.
Nàng quỳ gối bò đến, nắm lấy cổ tay ta mà cầu xin: “Van ngươi, nói cho ta biết Luyến nhi đang ở đâu, ta cầu ngươi…”
Ta mở miệng, nhưng rốt cuộc chẳng nỡ buông lời tàn nhẫn.
“Y theo phụ mẫu lên Bắc Cương rồi, chỉ sợ… chẳng trở về nữa.”
Có lẽ biết ta đang dối gạt, phu nhân ngơ ngẩn gật đầu: “Vậy là tốt… sống là tốt… sống là tốt…”
Phải rồi, còn sống là tốt.
Phiên ngoại 2
Đường về vẫn chọn đường thủy, nhưng vừa lên thuyền, ta đã hóa đá.
“Muội tử, trùng hợp quá nhỉ? Lại cùng đường cùng hướng rồi.”
Ta cười gượng gạo, âm thầm lùi khỏi ba vị hán tử vạm vỡ kia một bước.
Không vì gì khác, chỉ bởi họ quá mức chăm sóc ta. Lần trước ta đến kỳ, chính là bọn họ chuẩn bị ấm nước nóng sưởi bụng cho ta.
Tuy ân cần thật, nhưng nhiều khi lại khiến người ta sởn tóc gáy.
Chỉ đến đêm hôm ấy, khi ta say sóng đến nỗi chẳng phân được đông tây, mới thật sự cảm thấy có gì đó bất thường.
Ba vị đại ca hợp sức khiêng ta về phòng, ta đã nôn mửa đến trời đất đảo điên, đầu óc mê man chẳng còn phương hướng.
Giữa cơn mê, một bàn tay mát lạnh áp lên trán ta, nhẹ nhàng vén mái tóc ướt ra sau tai, động tác thuần thục quen thuộc.
“Là ai?” – ta yếu ớt hỏi.
Một tiếng thở dài khẽ vang nơi đỉnh đầu.
Chẳng mấy chốc, hương lan thoang thoảng ùa đến – nhè nhẹ, dịu dàng, không hề khiến người chán ghét.
Cùng hương thơm ấy là làn khí lạnh, từ nơi hốc mắt lan dần xuống tận khóe môi.
Ta bừng mắt mở ra.
Sau khi bị thiến, để át đi mùi cơ thể, có thái giám sẽ dùng hương liệu để che lấp. Nếu ta nhớ không lầm, Kỷ Liên dùng chính là hương lan.
Nhưng trong phòng tối om, ta chẳng nhìn rõ diện mạo, chỉ có thể nắm đại lấy một vạt áo.
Gắng gượng hỏi: “Là chàng sao?”
Người kia không đáp, chỉ khẽ kéo chăn đắp kín cho ta, hồi lâu mới nặng nề buông một câu: “Ngủ đi.”
Chẳng bao lâu, cơn buồn ngủ kéo đến như thủy triều. Khi ta tỉnh lại, tất cả đều tan thành mộng khói.
Ta như người điên, tìm khắp thuyền dấu vết của Kỷ Liên.
Ba vị đại ca đang chuyện trò trên boong, khi nghe ta hỏi liệu còn ai khác trên thuyền, liền nhìn nhau đầy ẩn ý, miệng thì bảo ta nằm mộng.
Ta ngồi một mình nơi mạn thuyền thật lâu, bữa trưa cũng chẳng buồn về ăn.
Người ta nói yêu tinh vốn không có tim. Nhưng nếu không có, cớ sao mỗi lần nghĩ đến chàng, nơi ấy lại đau đến thế?
Rời thuyền, ba vị đại ca theo ta về quán trọ, vừa đến tay là trả trước cả năm tiền phòng.
Dù ngạc nhiên, nhưng tiền đến tay, chẳng ai ngu mà từ chối.
Chỉ là từ dạo ấy, mỗi đêm ta thường ngửi thấy mùi hương lan mơ hồ quanh quẩn.
Gọi Hồng Châu đến ngửi thử, nàng lại bảo không thấy gì cả.
“Lẽ nào ta thật sự đang nằm mộng?”