Thính Ngân - Chương 14
29
Ta tuy cứng rắn, nhưng trong lòng tự hiểu, nước Ung mới thành lập còn quá yếu ớt, nếu Lương quốc thật sự muốn đè ép, thì dễ như trở bàn tay.
Lương quốc đã dày công xây dựng nhiều năm, thế lực vốn dĩ đã mạnh hơn, lại còn có Thi quốc kế bên liên hôn thân thiết từ lâu, nếu hai nước này liên thủ, lấy sức chống lại nước Ung hiện tại, e rằng bọn ta không có chút cơ hội phản kháng.
Huống hồ, Lương quốc ở thượng nguồn sông Kỳ, trong lãnh thổ lại có đập lớn. Nếu thật sự muốn đối phó nước Ung, bọn họ căn bản không cần dùng binh, chỉ cần mùa khô thì chặn nước, mùa lũ thì xả đập, cũng đủ khiến nước Ung kiệt quệ, phân rã trong nạn hạn và lũ.
Thế nhưng, ta tuyệt đối không thể thỏa hiệp trước sự tham lam vô độ ấy.
Nếu dâng hết vật tư của nước Ung để cống nạp Lương quốc, Lương quốc sẽ càng mạnh, còn nước Ung càng yếu, dân gian khó sống, đất nước vốn đã nhiều thiên tai lại thêm loạn lạc triền miên.
Vậy nên, một chữ cũng không thể đồng ý.
Nhưng từ chối cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ đối mặt với cơn cuồng phong từ Lương quốc.
Ta chưa từng bộc lộ chút lo lắng nào, chỉ mấy câu là đã lừa được bọn chúng sang Triệu quốc.
Ta thể hiện ra tự tin đầy mình, khiến Lương vương không dám dễ dàng đắc tội với đại quốc, tất sẽ phái người sang Triệu quốc dò xét.
Từ lúc sứ thần rời Vệ thành về Lương quốc, đến khi Lương quốc cử người đi Triệu quốc rồi quay lại, ít nhất cũng tốn nửa năm trời. Nếu dọc đường còn gặp thiên tai nhân họa, hành trình có khi còn kéo dài hơn nữa.
Đó là khoảng thời gian quý báu mà ta tranh thủ được cho nước Ung.
Trong khoảng thời gian hữu hạn ấy, ta lập tức ra lệnh xây dựng công sự phòng ngự ở biên giới giáp Lương quốc, ngày đêm không nghỉ, chiêu mộ tráng đinh, luyện binh thao trận.
Tự mình dẫn theo quan viên đo đạc từng tấc đất ven đê, chọn chỗ đào hồ tích thủy, sửa sang thủy lợi.
Từ đầu xuân đến cuối hạ, thu về hai vụ lúa, năm nay không hạn cũng chẳng lụt, đúng là một năm hiếm có được mùa, sản lượng dồi dào. Đám thương lái từng gom lương thao túng giá cả nay phần lớn đã bị xử lý, không còn ai dám tích trữ lương thực để trục lợi nữa.
Dân chúng ăn no suốt nửa năm, nạn dân chết đói giảm mạnh, dân số bớt thất thoát, lương thảo trong quân đội cũng được đảm bảo.
Chỉ là… Lương quốc bên kia lại càng ngày càng nhiều tiểu xảo.
Năm xưa bọn chúng không sáp nhập hạ du sông Kỳ cũng vì vùng này thiên tai quá nhiều, không dễ quản lý, ăn thì khó nuốt, cai thì bất tiện. Chỉ là lợi dụng Hoà Thuận làm chó giữ nhà, bóc lột nhân dân vùng này nhưng không chịu trách nhiệm cai trị.
Lúc đầu còn chờ xem nước Ung bị diệt vong, cho rằng chúng ta chắc chắn sẽ rớt đài quay về hang ổ.
Nào ngờ càng đợi, nước Ung càng đứng vững.
Muốn ra tay gây khó dễ, lại sợ ta thật sự có chỗ dựa, nóng ruột nóng gan, cuối cùng chờ được sứ giả quay về từ Triệu quốc, mới vỡ lẽ ra — ta đã lừa hắn.
Đúng là Triệu quốc có một người tên Trương Văn Cảnh, năm đó khoa cử vừa được phục hồi, hắn liền đoạt Tam nguyên, phong quan tiến chức, vang danh thiên hạ.
Nhưng sau này, Trương Văn Cảnh bị giáng chức, vì lừa gạt Hầu gia, đắc tội thế gia, lại thêm bị Đại tướng quân Triệu Thành ghét bỏ, cuối cùng bị đuổi khỏi vương đô.
Vậy thì nào có chỗ dựa nào gọi là to lớn?
Giờ đây, Trương Văn Cảnh chẳng qua cũng chỉ là một kẻ thất thế bị đày đi nơi xa, Triệu quốc đời nào màng đến chuyện vặt của tiểu quốc vùng ven?
Còn chuyện ta là con gái ruột của Trương Văn Cảnh, thì đúng là thật.
Trộn lời thật với chút lời dối, mới là gian trá khó lường nhất.
Chỉ mấy câu nói đã khiến Lương vương bị lừa gần cả một năm, sứ giả trở về mà mặt mũi tả tơi, khóc ròng kể lể: bị cướp xe ngựa, bị đạp xuống sông, cưỡi ngựa thì ngựa phát cuồng chạy lạc vào khe núi…
Nói chung đủ chuyện xui xẻo khiến hành trình dài đằng đẵng.
Lương vương giận tím mặt, hất luôn ái phi trên người ra, đập bàn rống giận: “Bảo sao đi mãi chưa thấy về! Hóa ra là bọn nó cố ý câu giờ!”
Năm đầu lập quốc của nước Ung, khi mùa đông chớm sang, Lương quốc chính thức khai chiến.
30
Dã thú trong rừng sâu khi mới sinh ra còn non nớt yếu mềm, chỉ lúc ấy mới dễ ra tay giết chết. Một khi trưởng thành rồi, sẽ trở nên hung hãn khó đối phó.
Lương quốc đã đánh mất cơ hội thảo phạt ngay khi nước Ung vừa lập quốc, để ta có cơ hội thở dốc mà trưởng thành, giờ muốn giết chết nước Ung, e chẳng dễ dàng gì.
Bọn họ vốn nghĩ chỉ cần động tay là diệt được ta, nào ngờ một trận chiến dằng dặc suốt hơn một năm, vẫn chưa kết thúc.
Chiến sự kéo dài, đến Lương quốc cũng ngày một sa lầy, quân lương vũ khí dần dần cạn kiệt, binh lực cũng ngày một hao mòn.
Dĩ nhiên, nước Ung còn khổ sở hơn.
Hơn hai năm rồi, vẫn chưa xây nổi một tòa hoàng cung, ta và Lý Nhị Ngưu ở tạm trong phủ Thành chủ của Vệ thành, tòa phủ đệ hào hoa do Hoà Thuận mở rộng khi xưa, ngay cả tường cũng bị tháo xuống đem đi xây thành, tất cả vật quý đều bị chuyển đi, chỉ chừa vài gian phòng để ở và đại sảnh để nghị sự, cảnh tượng thật thảm đạm.
Thế nhưng, phía sau có đói khổ thế nào, tiền tuyến chưa bao giờ lùi một bước, thậm chí còn tiến công sâu vào đất Lương.
Dưới trướng ta có nhiều dũng tướng và mưu thần, bách tính binh lính đều trung thành yêu mến ta, cộng thêm lối đánh quỷ quyệt được đối phương gọi là “dụng binh như thần”, cục diện thắng lợi ngày càng rõ rệt.
Lương quốc từng mưu tính dựa vào địa thế và thủy lợi để làm suy yếu nước Ung, nhưng ta chưa từng ngừng việc tu sửa thủy lợi, đào hồ tích nước, thủ sẵn mọi tình huống — mùa hạn thì dẫn nước tưới đồng, mùa mưa thì trữ lũ, khiến Lương quốc chẳng thu được mấy phần lợi.
Bị bức đến đường cùng, Lương vương cúi đầu cầu viện Thi quốc bên cạnh.
Đám chư hầu cũ như bọn họ, quan hệ thông gia rối rắm, lợi ích chồng chéo, đó là thứ mà chúng ta — một đám “thảo dân thổ phỉ man di” — không có được.
Hai nước liên thủ tấn công, nước Ung đã kiệt sức rã rời, tất yếu thất bại.
Khói lửa nơi tiền tuyến, hai bên giáp mặt, Hoà Thuận đích thân dẫn quân, đứng trước trận tiền, cười ha hả: “Đầu hàng đi, thằng trọc lóc! Giao con công chúa xinh đẹp của mày ra cho bọn tao chơi một trận đã đời, ông mày sẽ cho mày toàn thây!”
Lý Nhị Ngưu tức đến mặt đỏ bừng, trừng mắt giận dữ, tay siết chặt đại đao, cào lằn đất trước mặt.
Khi ta còn nhỏ hay đói, thân thể gầy yếu, dù ngày ngày luyện võ cũng chỉ đủ tự vệ, tự nhiên không thể ra trận chém giết, lúc này ta đứng trên thành lầu, ánh mắt hờ hững nhìn xuống chiến trường phía trước, không chút dao động, không chút giận dữ.
Chỉ nhàn nhạt nói một câu: “Phóng tên.”
Căn bản không thèm để ý đến viện binh Thi quốc.
Lý Nhị Ngưu sớm đã chờ đến đỏ mắt, nghe lệnh liền dẫn binh xông lên, mũi tên từ trên thành bắn xuống còn nhanh hơn bước chân quân lính, tập trung nhắm vào một mình Hoà Thuận, mưa tên dày đặc, bao phủ đầu hắn.
Hoà Thuận kinh hãi tháo chạy, chui ra sau đội quân, không hiểu vì sao cục diện rõ ràng như thế mà ta không chịu đầu hàng.
Hắn không biết ta – “tiểu công chúa” – có vị trí thế nào trong lòng quân dân nước Ung, hắn vô ý chọc giận cả một quốc gia, khiến sĩ khí bùng cháy, tinh thần dân quân càng thêm phấn chấn.
Tướng lĩnh Lương quốc thì co đầu rụt cổ, quân đội liên tục thất bại, Hoà Thuận cố thủ chờ viện binh Thi quốc, nhưng chờ mãi chỉ nhận được một hung tin — quân lương của hắn đã bị thiêu hủy.
Một năm trước, ta ở bên giường bệnh của nữ tử kia, nói với nàng: “Ngươi thất bại, nhưng ta chưa. Ta có thể cùng ngươi báo thù.”
Ta nhìn sâu vào mắt nàng: “Ngươi có muốn… gia nhập cùng ta không?”
“Muốn!” — Nàng đáp, rắn rỏi như tiếng sấm.
Lúc ấy ta mới hỏi tên họ nàng.
Tên là Trương Kiều Kiều, dáng người cao lớn lực lưỡng, da ngăm đen, mặt mày rộng rãi, trời sinh thần lực, là một mầm tốt.
Nhưng khác với Chu Linh, Trương Kiều Kiều chỉ có sức chứ không có võ, ta ném nàng vào doanh trại, để nàng tự mình rèn luyện trên chiến trường.
Nàng không khiến ta thất vọng. Hai năm qua lăn lộn trong máu lửa, học được đủ loại kỹ năng, nay đã là một phó tướng khét tiếng, oai phong như sát thần.
Ta phái nàng dẫn quân vòng ra phía sau, cắt đứt đường lương thảo của quân Lương.
Hoà Thuận hoảng loạn. Một khi đã sợ, thì tự nhiên đội hình rối loạn. Trong lúc chạy, tránh tên không kịp, bị một mũi cắm thẳng ngực, ngã ngựa mà chết.
Trong chiến trường, hắn bị bắn thành cái rổ.
Đó là cái giá phải trả cho kẻ dám miệng lưỡi phóng túng.
31
Binh lính Lương quốc thua chạy như sụp đổ núi lớn, cho đến khi quân ta một đường đánh thẳng vào tận đô thành Lương quốc, bọn họ vẫn chẳng thấy bóng dáng viện binh Thi quốc. Lương vương lúc lâm tử, tràn đầy không cam lòng, hỏi rằng: “Vì sao? Rốt cuộc là vì sao?”
Ta ngắm nhìn tòa cung điện lộng lẫy sơn son thếp vàng, từ ái giải thích cho hắn vài lời: “Bởi vì, Thi quốc thân còn khó giữ, nước Sái đã đánh vào tận vương đô của họ rồi.”
Viễn giao cận công, chia để phá.
Nước Sái nằm cách nước Ung một dãy núi, bị Thi quốc và Lương quốc giáp công bao năm, từ lâu đã muốn diệt trừ hai nước kia, nhưng chỉ đánh được một, không chống nổi hai.
Ta phái sứ giả đi mật đàm với nước Sái: ta đánh Lương quốc, đợi Thi quốc xuất binh rời khỏi đô thành, khi Thi quốc binh lực trống rỗng, nước Sái liền không bỏ qua thời cơ, tập kích thành.
Một người đánh một nước.
Lương vương sợ chết, cầu ta tha mạng, hứa sẽ quy thuận, thề không dòm ngó đất Ung nữa. Ta nhìn ánh mắt kinh ngạc của hắn, từ tốn nói: “Ngươi mơ chiếm đất nước ta, chẳng lẽ… ta lại không muốn có được bờ cõi của các ngươi?”
Ta đâu phải hạng người chỉ biết giữ thành. Ngay từ đầu, cuộc chiến này không phải để tự vệ, ta muốn nuốt trọn địa bàn Lương quốc.
Xưa nay chưa có nước lớn nào, mà chỉ nắm một nửa dòng mẹ. Một triều đại muốn hưng thịnh, không thể chỉ dựa vào mưu kế xoay chuyển càn khôn, cái cốt lõi nhất, tận cùng nhất — chính là tài nguyên.
Núi sông ruộng đồng để cày cấy đánh cá, đồi cao hiểm trở để thủ thành công kích, nước, đất, gỗ, dân số, khoáng sản, vị trí… đều là cội rễ quốc vận.
Giữ một nước chư hầu ở thượng lưu dựng đập phá rối thì không được, ta muốn nước Ung độc chiếm sông Kỳ.
Chính tay ta giết chết Lương vương, lại không vội ăn mừng, lập tức lệnh cho quân ta quay đầu đề phòng nước Sái, sợ rằng chúng sau khi nuốt Thi quốc lại chẳng thấy đủ, mưu toan xâm lược nước ta.
Ít lâu sau, sứ giả nước Sái đến mời ta cùng Lý Nhị Ngưu, nói là muốn tạ ơn.
Ta một mình lên xe ngựa đến biên giới, tướng quân bên kia cười ha hả, lấy ra một hộp nhỏ, sau đó ra lệnh cho đại quân vây chặt bốn phía.
Đại nguyên soái nước Sái đắc ý vô cùng: “Điện hạ, nhìn vật này có quen mắt không?”
“Không ngờ phải không? Bản tướng đoạt được binh phù của quân ngươi rồi. Không ai cứu được ngươi đâu, quân lệnh điều không nổi, chi bằng ngoan ngoãn khuất phục.”
Tòa phủ Thành chủ ở Vệ thành đã bị tháo gần sạch, cái hộp gỗ trầm quý giá này giấu trong nơi bí mật nhất, bọn chúng sai nội gián trà trộn vào, đinh ninh rằng đây là binh phù, liền trộm đi.
Không có binh phù, không điều động được quân, chúng mưu bắt ta trước, sau đó thừa thắng tiến công.
Quả thật tính toán tinh vi.
Ta cúi đầu trầm ngâm chốc lát, rồi rút đao chém thẳng đầu tên hầu cạnh bên, máu tươi phun đầy đất.
Mắt ta không chớp.
Chính là kẻ nội gián đó.
Chết một tên không sao, bởi thứ đánh đổi là một “binh phù” — đáng giá hơn. Hắn chém hộp ra trước mặt ta, nụ cười liền đông cứng.
Sắc mặt ta lạnh như sương, khẽ ra lệnh: “Giết.”
Từ mé rừng ào ra quân Ung mai phục từ trước, bao vây ngược bọn chúng, đánh đến tan tác.
Tướng quân nước Sái trọng thương ngã xuống, thoi thóp, cuối cùng mới nghe ta nói: “Ung quốc… chưa từng có binh phù.”
“Quân ta, chỉ nhận lệnh từ ta.”
Chiếc hộp trầm quý nát bấy bên cạnh rơi đầy những mảnh vụn — Khăn bọc trẻ con của muội muội đã khuất, trâm gỗ của tỷ tỷ mất sớm, mảnh vải dính máu của người mẹ vong mệnh…
Còn có di vật của những tướng sĩ ta từng thân quen, đã ngã xuống giữa đường.
Mỗi người mất đi, ta liền giữ lại một món đồ, cất trong chiếc hộp quý giá nhất, lâu dần, đã chất đầy.
Trương Kiều Kiều lặng lẽ nhặt lên giúp ta, rồi đột ngột dừng lại, nhìn ta chằm chằm: “Điện hạ, ta vẫn thường chửi người khác trung thành ngu muội, nhưng nếu là người… ta nguyện chết vì người.”
Ta thu hết vào lòng, nhẹ giọng: “Ta mong mọi người đều sống tốt.”
Thế nhưng, loạn thế hiểm nguy, mạng người mong manh như tơ nhện, nếu một ngày nào đó ta chết giữa đường cũng chẳng phải chuyện lạ.
Ta rất đỗi bình thản, dặn Trương Kiều Kiều: “Nếu có ngày ta chết, nếu có điều kiện, hãy thiêu ta đi, giữ một đoạn xương, để chung vào chiếc hộp này, rồi tùy tiện chôn ở nơi nào cũng được.”
Trương Kiều Kiều phì cười rồi vội mắng: “Phi! Điện hạ tất sẽ trường mệnh bách tuế!”