Minh Nguyệt Nhược Định - Chương 7
Trong gương, đuôi mắt ta đã có nếp nhăn, bên tóc mai đã điểm sợi bạc, mà trong ký ức của ta, hắn vẫn là dáng vẻ của năm đó, vẫn là thiếu niên trong lòng ta.
Tào Nhược Định, nếu chàng còn không trở về, ta thực sự sẽ già mất rồi.
Tổ chức cử một người đến gặp ta.
Là một phi công Quốc quân đầu hàng tại Thượng Hải, từng nhập ngũ cùng thời với Tào Nhược Định.
Hắn nhìn ta, cười cười nói: “Cô chính là Lưu Nguyệt Nhi? Tiểu Nguyệt Nhi của Tào Nhược Định?”
Ánh mắt của hắn hơi trêu ghẹo, ta không biết Tào Nhược Định đã nhắc đến ta thế nào trước mặt chiến hữu, chỉ cảm thấy hơi ngượng ngùng.
Ta cố gắng bình tĩnh, che đi bất an trong lòng, hỏi: “Tào Nhược Định đâu? Sống hay đã chết?”
Hắn cười: “Sống, còn sống!”
Biết hắn còn sống, lòng ta lập tức tràn ngập vui sướng.
Nhưng rồi ta chợt nhớ ra, hắn còn sống mà lại không quay về—chuyện này e là không ổn.
Vừa vui mừng chưa được bao lâu, trong lòng ta lại trở nên bấp bênh bất an.
Phi công nọ thở dài, nói:
“Chúng ta vốn đã bàn bạc kỹ, cùng nhau đầu hàng. Dù sao cũng không muốn đánh nữa, người Trung Quốc đánh người Trung Quốc thì ra thể thống gì?
Chúng ta trốn mấy ngày, nhưng hắn không may bị phát hiện, bị bắt lại, rồi bị ép rút lui theo Quốc quân sang Đài Loan.”
Ta gấp gáp hỏi hắn bị bắt như thế nào.
Người kia lộ ra vẻ áy náy, chậm rãi kể:
“Chúng ta trốn trong một nhà nông dân. Khi quân bắt lính đến, chúng ta cùng con trai nhà nông ấy chạy lên núi trốn.”
“Họ bắt đứa trẻ sơ sinh trong nhà, giơ lên cao, nói rằng nếu chúng ta không ra, bọn chúng sẽ quẳng đứa bé xuống đất giết chết.”
Nói đến đây, hai tay hắn siết thành nắm đấm.
“Ngay khi tên lính kia giơ tay làm động tác ném, Nhược Định lập tức lao ra khỏi rừng, đoạt lấy đứa bé…”
Ta lặng người gật đầu.
Đúng là hắn.
Nếu hắn thật sự ẩn mình trong rừng, nhìn thấy đứa bé bị ném xuống mà không cứu, cả đời này hắn sẽ không thể an lòng.
Hắn nói tiếp:
“Cô đừng lo, đợi Đài Loan giải phóng, hắn sẽ trở về.”
“Hắn từng nói, sau khi chiến tranh kết thúc, hắn nhất định sẽ quỳ xuống cầu hôn cô.”
“Còn nói rằng, nếu hắn có diễm phúc được cưới cô, toàn doanh trại sẽ cùng nhau ăn kẹo cưới.”
“Ấy, cô đừng khóc mà! Muốn khóc thì đợi hắn về, chui vào lòng hắn mà khóc.”
Lúc đó, chúng ta đều nghĩ rằng Đài Loan sẽ sớm được giải phóng.
Ta thậm chí còn nghĩ—nếu đại quân phát động tổng tấn công Đài Loan, ta cũng sẽ theo ra tiền tuyến, chính tay đón hắn trở về nhà.
17
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ.
Ngày 15 tháng 9, quân Mỹ đổ bộ lên Incheon; ngày 30, “Quân đội Liên Hợp Quốc” vượt qua vĩ tuyến 38.
Ngày 19 tháng 10, Quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc vượt sông Áp Lục, tiến vào chiến trường Triều Tiên, khởi đầu cuộc Kháng Mỹ viện Triều.
Kế hoạch giải phóng Đài Loan, từ đây bị gác lại.
Thê tử của Tào Hồng Viễn là người ngoại quốc, sau khi biết Tào Nhược Định vẫn ở Đài Loan, liền nhờ bạn bè trong hội truyền giáo ở nước ngoài tìm giúp ta.
Nhưng đã nhiều năm trôi qua, vẫn không có chút tin tức nào.
Những năm gần đây, Tào phu nhân ngày một yếu hơn, ta biết bà đã như ngọn đèn trước gió.
Trước khi mất, bà nắm lấy tay ta, nói rằng những năm qua ta chịu nhiều khổ cực.
Bà lại nói: “Con và Nhược Định cũng không thực sự là phu thê, ta muốn nhận con làm con gái, từ nay về sau Tào gia chính là nhà mẹ đẻ của con. Nếu con gặp được người tốt, cứ để Tào Hồng Viễn thay ta đưa con xuất giá.”
Lời này năm nào bà cũng nhắc, nhưng lần này lại cực kỳ kiên quyết.
Ta vẫn lắc đầu từ chối.
Bà có chấp niệm của bà, ta cũng có chấp niệm của ta.
Ta không phải nữ nhân nhất quyết thủ tiết suốt đời.
Chỉ là, đời này ta đã từng yêu một người như Tào Nhược Định, thì nhìn người khác, luôn cảm thấy bọn họ không đẹp bằng hắn, không có phong độ bằng hắn, không thú vị bằng hắn…
Hay nói đúng hơn, người khác dù có tốt đến đâu, nhưng họ không phải là hắn.
Ta chỉ muốn Tào Nhược Định.
Quan trọng nhất là, trên thế gian này, không có ai như hắn, dạy ta cách yêu chính mình.
Sau khi lo xong tang sự của Tào phu nhân, Tào Hồng Viễn đưa ta một chiếc hộp nhung đen, bên trong là một chiếc nhẫn kim cương.
“Hồi đó, đại ca nhờ ta chọn giúp ở nước ngoài, dùng tiền huynh ấy tự dành dụm trong nhiều năm, không tiêu một đồng của gia tộc. Huynh ấy nói muốn dùng để cầu hôn tẩu.”
Nghe nói, kim cương cứng rắn vô song, người phương Tây dùng nó để chứng minh tình yêu vĩnh cửu.
Đã nhiều lần ta nghe người khác nhắc rằng hắn muốn cầu hôn ta.
Rõ ràng ta đã gả cho hắn, còn cầu hôn cái gì nữa?
Ta cúi đầu, không kìm được nụ cười, trong lòng vừa đắng chát, lại vừa ngọt ngào.
Ta muốn chạm vào chiếc nhẫn, nhưng tay mới vươn ra một nửa lại thu về.
“Đây là nhẫn cầu hôn, chàng nói phải tận tay đeo cho ta, vậy đệ giữ lại giúp chàng trước đi. Chờ chàng trở về, tự mình trao cho ta.”
Tào Hồng Viễn trầm mặc một lúc, nhẹ giọng nói: “Nếu… huynh ấy không quay về thì sao?”
Nghe vậy, ta giận dữ trừng mắt nhìn hắn: “Chúng ta đã hẹn gặp nhau bên bờ Phủ Nam Hà. Dù người chết rồi, hồn cũng phải về chịu ước hẹn!”
Nhưng thời thế đâu phải vì sự chờ đợi của ta mà đổi thay.
Quan hệ hai bờ ngày một căng thẳng, một eo biển ngắn ngủi, nhưng trở thành rào cản khó có thể vượt qua.
Ta thường ngửa đầu nhìn mảnh trăng tàn nơi chân trời, nghĩ về người bên kia eo biển.
Không biết hắn có từng nhìn lên vầng trăng cô độc này mà nhớ ta không?
Ta viết tất cả nỗi nhớ thương dành cho hắn lên giấy.
Nhưng hai bờ không thể gửi thư, ta cũng không biết địa chỉ của hắn ở Đài Loan.
Viết rồi cũng vô dụng, chỉ có thể xếp lại, cất vào trong rương.
Năm ta bốn mươi mốt tuổi, ta mơ một giấc mộng.
Trong mộng, ta thấy một thiếu niên khôi ngô, lớn lên trông giống hệt Tào Nhược Định.
Trong mộng, lúc thì ta và hắn sóng vai đi dạo bên bờ Phủ Nam Hà; lúc thì ta chạy phía trước, kéo theo diều giấy, còn hắn đuổi theo phía sau; lúc thì ta và hắn khiêu vũ trên sàn nhảy; lúc thì hai ta mặc kệ cơn mưa rào, ôm nhau thật chặt…
Đến cuối cùng, hắn nhẹ nhàng hôn ta, nói: “Tiểu Nguyệt Nhi, ta đi đây, nàng phải sống cho thật tốt.”
Ta cố gắng níu lấy hắn, nhưng hắn càng lúc càng xa, ta nắm không được.
Ta khóc mà tỉnh lại.
Bên ngoài màn đêm dày đặc, mưa rơi lộp bộp trên cửa kính, lòng ta bỗng dâng lên cảm giác hoảng loạn khó hiểu.
Tự dưng mộng thấy hắn, không biết là điềm tốt hay điềm xấu.
Chợt ta nghĩ đến—
Nhỡ đâu hắn trở về vào ban đêm, không tìm được đường, thì phải làm sao?
Ta nên để lại một ngọn đèn cho hắn mới phải.
Từ đêm đó, mỗi tối ta đều để lại một ngọn đèn nhỏ trước cửa sổ.
18
Thời gian chớp mắt trôi qua, gần ba mươi năm đã vụt mất.
Nỗi nhớ của ta không biết đã lấp đầy bao nhiêu chiếc rương.
Ta đã già lắm rồi.
Nhưng vì sao hắn vẫn chưa trở về?
Không biết đôi tay ngày càng thô ráp, nhăn nheo này của ta còn có thể đeo chiếc nhẫn kia được không.
Ngày 1 tháng 1 năm 1979, Ủy ban Thường vụ Nhân đại Trung Quốc công bố Bức thư gửi đồng bào Đài Loan lần thứ năm.
Chính phủ Trung Quốc ra lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ngừng pháo kích các đảo Kim Môn, kêu gọi chấm dứt đối đầu quân sự, mong hai bờ sớm thông thương, thông thư, thông giao, mở cửa thăm thân…
Ngày 8 tháng 8 năm 1981, một phi công Đài Loan lái chiếc F-5F, vượt eo biển Đài Loan, hạ cánh xuống sân bay Phúc Châu.
Là hắn sao?
Có phải hắn không?!
Tim ta đập thình thịch trong lồng ngực, vang dội đến mức ta không nghe được gì khác.
Hai tay ta run rẩy, nhìn chằm chằm những người xung quanh, không dám mở miệng hỏi.
Buổi tối, Tào Hồng Viễn về nhà, ta chờ mong nhìn hắn.
Nhưng hắn nhìn ta, trong mắt không có lấy một tia vui mừng, như thể có điều gì đó muốn nói nhưng không thể.
Ta hiểu rồi—không phải hắn.
Không sao cả.
Chờ lâu như vậy rồi, có lẽ người tiếp theo chính là hắn, có lẽ là ngày mai.
Ngày 25 tháng 8 năm 1987, Tưởng Kinh Quốc công khai tuyên bố: Sắp mở cửa cho dân chúng Đài Loan sang Đại Lục thăm thân.
Ngày 3 tháng 12 cùng năm, những kiều bào đầu tiên từ Đài Loan nhập cảnh qua cửa khẩu La Hồ, Quảng Đông, tỏa ra khắp mọi miền Trung Quốc, đoàn tụ với gia đình sau gần bốn mươi năm xa cách.
Từ năm 1937, khi ta và hắn chia ly ở Thượng Hải, đến 1987, khi đồng bào Đài Loan trở về quê nhà lần đầu tiên, ta và hắn đã xa cách tròn năm mươi năm.
Nghĩ đến việc sắp được gặp hắn, ta bỗng thấy xấu hổ, tìm Tào Hồng Viễn đòi lại chiếc nhẫn, định đợi hắn tự tay đeo cho ta.
Trên mặt ta đầy những nếp nhăn, tóc cũng đã bạc trắng, chỉ mong hắn gặp ta rồi đừng ghét bỏ.
Hừm, hắn cũng là một lão già rồi, có tư cách gì mà ghét bỏ ta chứ?
Ta mặc một bộ sườn xám màu nhạt, vấn tóc gọn gàng.
Lũ hậu bối vây quanh, nhao nhao đòi thoa son cho ta.
“Đi đi đi, đừng quấy rầy ta!”
Ta cười, đuổi hết bọn họ ra ngoài, rồi một mình ra bờ Phủ Nam Hà, chờ hắn đến.
Mặt sông phẳng lặng, ta nhìn dòng nước, nhớ lại ngày đó, hắn dạy ta tập xe đạp, không nhịn được mà bật cười.
Tiếng bước chân vang lên sau lưng.
Một nhóm người bước đến gần.
Mỗi người đều tràn ngập vui mừng, có người cầm micro, có người vác máy quay phim cồng kềnh, có những thiếu niên quàng khăn đỏ.
Họ vây quanh ta, ríu rít nói chuyện, nhưng ta chẳng nghe rõ một lời nào.
Ánh mắt ta vội vã quét khắp đám đông, tìm kiếm bóng hình hắn.
Đám đông bao quanh một lão già nhỏ bé.
Ta nhìn hắn, chỉ cảm thấy xa lạ vô cùng.
“…Ngươi là Tào Nhược Định?”
Lão già lắc đầu, đưa cho ta một chiếc hộp nhỏ.
“Nhược Định đã mất tại Đài Bắc vào năm 1959. Trước khi chết, hắn nhờ ta: ‘Khi nào có thể về nhà, hãy đưa tro cốt của ta đến bên Tiểu Nguyệt Nhi.’”
Ta nhận lấy tro cốt của hắn.
Trong lòng lạ lùng thay, lại rất bình tĩnh.
Năm 1959…
Chính là năm ta bốn mươi mốt tuổi…
Hóa ra, đêm đó thật sự là hắn quay về.
Ta vuốt ve hộp tro cốt, cảm nhận bề mặt nhẵn mịn, trên đó dán một tấm ảnh nhỏ.
Hắn trong ảnh chỉ già hơn một chút so với lúc ta rời xa hắn.
Hắn đeo kính, tóc chải gọn gàng, trông nho nhã như một người thầy giáo.
“Cuối cùng cũng gặp lại rồi…”
“Về rồi là tốt rồi.”
Ta ôm tấm ảnh sát vào ngực, thì thầm.
Xung quanh ồn ào náo nhiệt, nhưng ta chỉ mãi ôm chặt lấy hắn.
Chợt một cơn gió lớn nổi lên, lùa qua hàng liễu bên sông, lướt nhẹ qua gò má ta.
Gió này… phải chăng là hắn?
Ta ôm hộp tro cốt, từng bước chậm rãi đi đến tiệm ảnh.
“Phu nhân, muốn chụp ảnh sao?”
“Chụp một mình à?”
……
“Không, chụp với… với phu quân ta.”
“Phu nhân, thật ngại quá, nhưng… ta không nhìn thấy ai cả…”
Hắn bây giờ có thể xem là phu quân của ta rồi nhỉ?
Ta cảm thấy có chút vui vẻ, nhẹ nhàng vuốt thẳng mái tóc đã bạc màu.
Ta lấy ra chiếc hộp nhẫn, học theo thê tử người phương Tây của Tào Hồng Viễn, lồng nhẫn vào ngón áp út.
Ta đặt hộp tro cốt lên đùi, bàn tay đặt lên trên, chiếc nhẫn hiện ra ngay chính giữa.
“Xong rồi, có thể chụp rồi.”
Chụp ảnh cưới, tất nhiên phải đẹp một chút.
Ta cúi xuống nhìn tro cốt, nhẹ nhàng mỉm cười.
Chợt như có ảo giác—
Tào Nhược Định đứng bên cạnh ta, tay hắn đặt trên vai ta.
Chúng ta cùng hướng về ống kính.
Một tia sáng lóe lên, theo sau là làn khói mờ ảo.
Linh hồn ta và hắn, từ đây bị khóa chặt trong bức ảnh.
Rốt cuộc, chúng ta cũng gặp lại nhau.
Ta vốn là một kẻ tham lam.
Vừa muốn giang sơn, lại vừa muốn gia đình.
[HẾT]